Tình trạng tiêm chủng
Lý luận và hướng dẩn
Tiêm chủng
là một trong những cách hiệu nghiệm nhất để
ngăn ngừa các bệnh truyền nhiễm và bảo vệ
sức khỏe công cộng1,2. Vắc xin tác động
bằng cách kích thích hệ thống miễn dịch của
cơ thể sản xuất ra các kháng thể có thể chống
lại các mầm gây bệnh cụ thể, như vi rút hoặc
vi khuẩn. Tiêm chủng giúp mọi người làm giảm
nguy cơ mắc bệnh, nhập viện hoặc tử
vong do các bệnh mà vắc xin có thể giúp ngăn ngừa.
Vắc xin tạo ra miễn dịch tập thể nên rất
lợi ích cho cộng đồng, khi đủ số
người miễn dịch với một bệnh, thì bệnh
trở nên khó lan truyền trong dân số. Điều này có
thể bảo vệ những người chưa
được tiêm chủng hoặc có hệ miễn dịch
yếu.
Tiêm chủng
đặc biệt quan trọng trong việc ngăn chặn
đại dịch, đó là các đợt bùng phát lớn của
các bệnh truyền nhiễm ảnh hưởng đến
nhiều người trên khắp các vùng hoặc quốc gia
khác nhau. Đại dịch có thể gây ra bệnh nặng,
tử vong, phá vỡ mạng xã hội và mất mát kinh tế.
Một số ví dụ về các đại dịch trong lịch
sử là đại dịch cúm năm 1918, đại dịch
H1N1 năm 2009 và đại dịch COVID-19 đang diễn
ra. Vắc xin có thể giúp ngăn chặn đại dịch
bằng cách làm tắc nghẻn sự truyền nhiễm của
các mầm gây bệnh mới hoặc đang trồi lên
trước khi chúng trở nên phổ biến và gây ra khủng
hoảng sức khỏe toàn cầu.
Một trong những
thách thức trong việc ngăn chặn đại dịch
là cần phải phát triển và phân phối vắc xin một
cách nhanh chóng và công bằng để đáp ứng mối
đe dọa mới hoặc không biết trước.
Điều này đòi hỏi sự cải tiến của
khoa học, sự hợp tác toàn cầu và những hệ
thống y tế mạnh mẽ. Ví dụ, với COVID-19, một
số tổ chức và khởi xướng, như Liên Minh
Đổi Mới Chuẩn Bị cho Bệnh Dịch (CEPI)
và Cơ sở COVAX, đã cùng nhau làm việc để
tăng tốc độ phát triển, phê chuẩn và cung cấp
vắc xin an toàn và hiệu quả chống COVID-193,4.
Tuy nhiên, vẫn còn có sơ hở và rào cản trong việc
truy cập và dự trử vắc xin, đặc biệt tại
các nước có thu nhập thấp và trung bình. Do đó, cần
phải có nhiều nỗ lực hơn để tăng
cường và đa dạng hóa sản xuất vắc xin,
cải thiện chuỗi cung ứng và hậu cẩn và
đảm bảo phân phối công bằng vắc xin với
giá cả phải chăng cho mọi người cần.
Tóm lại, tiêm chủng
là một công cụ quan trọng để duy trì sức khỏe
và bảo vệ cộng đồng khỏi các đại
dịch. Vắc xin có thể cứu sống, giảm
đau khổ và bảo vệ những người yếu
nhất khỏi các bệnh truyền nhiễm. Tuy nhiên, vắc
xin một mình không đủ để ngăn chặn các
đại dịch. Chúng ta cũng cần phải cải
thiện các biện pháp phòng ngừa khác, như giám sát, kiểm
tra, truy vết tiếp xúc, cách ly, kiểm dịch, vệ
sinh, thông gió và giữ khoảng cách xã hội5,6.
Hơn nữa, chúng ta cần phải xác định nguyên
nhân của các đại dịch, như suy thoái môi trường,
thương mại động vật hoang dã, phá rừng,
đô thị hóa và tương tác giữa con người và
động vật7,8. Cùng làm việc với nhau và
hành động tất thời, chúng ta có thể xây dựng
một tương lai an toàn và lành mạnh cho chính mình và thế
hệ tương lai.
1 Reasons for Adults to be Vaccinated | CDC
2 Five Important Reasons to Vaccinate Your Child |
HHS.gov
3 Berkley,
S. (2021) How to Prevent the Next Pandemic - Scientific American
4 Pandemics Overview (worldbank.org)
5 How to Protect Yourself and Others | CDC
6 Pandemics: Definition, Prevention, and Preparation
(webmd.com)
Tiêm vắc-xin chống nhiễm vi rút
Lời nhắc: Tổng điểm 0 thì thật ưu tú, không cần làm gì thêm. Nếu có mục nào điểm 1 bạn nên tham khảo với bác sĩ hay các chuyên gia nghành y để chủa trị nếu cần. Lưu lại hay in bảng trên. Nhớ xoa bỏ dữ liêu riêng khi rời trang web.
"Dự phòng tốt
hơn chữa trị" - Desiderius Erasmus
Tiêm vắc-xin chống nhiễm vi khuẩn
|
Khuyến nghị và Lịch Trình của CDC |
Điểm |
|
Điểm 0 nếu đã theo đúng khuyến
nghi và lịch trình, nếu không điểm 1 |
|
Vi khuẩn |
|
|
Bệnh bạch hầu (Corynebacteria diphtheriae) |
Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ: 3 mũi DTaP
khi trẻ được 2,4,6 tháng, sau đó tiêm nhắc lại
2 mũi khi trẻ được 15-18 tháng và 4-6 tuổi.
Trẻ trước 13 tuổi và thiếu niên: tiêm nhắc
lại dùng Tdap. Người lớn: tiêm nhắc lại
Tdap 10 năm một lần. Phụ nữ mang thai: Tdap
trong ba tháng đầu. |
|
Haemophilus cúm loại b |
3 liều (PedvaxHIB) hoặc 4 liều (ActHIB hoặc
Hiberix) vào khoảng thời gian từ 2-15 tháng, thường
là 2,4,6 tháng nếu tiêm 3 liều và thêm một liều nữa
trong khoảng thời gian từ 12-15 tháng nếu tiêm 4 liều. |
|
Bệnh viêm màng não cầu khuẩn (Neisseria
meningitidis) |
MenACWY thường tiêm khi 11-12 tuổi, tiêm nhắc
lại ở tuổi 16. Cũng cần tiêm cho trẻ em và
người lớn có nguy cơ cao. MenB cũng có sẵn
cho tất cả trẻ em từ 10 tuổi trở lên với
nguy cơ cao hơn. |
|
Bệnh phế cầu khuẩn (Streptococcus
pneumoniae) |
Nên tiêm vắc xin liên hợp phế cầu khuẩn
(PCV 13,15, 20) cho tất cả trẻ em dưới 5 tuổi,
5-64 tuổi nếu có nguy cơ cao và từ 65 tuổi trở
lên. Nên tiêm vắc xin polysaccharide phế cầu khuẩn
(PPSV23) cho trẻ từ 2-18 tuổi mắc một số
bệnh nhất định và cho trẻ từ 18 tuổi
trở lên mắc PCV15. |
|
Bệnh uốn ván (Clostridium tetani) |
Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ: 3 mũi DTaP
khi trẻ được 2,4,6 tháng, sau đó tiêm nhắc lại
2 mũi tiêm nhắc lại khi trẻ được 15-18
tháng và 4-6 tuổi. Trẻ trước 13 tuổi và thiếu
niên: tiêm nhắc lại dùng Tdap. Người lớn: tiêm
nhắc lại Tdap 10 năm một lần. Phụ nữ
mang thai: Tdap trong ba tháng đầu. |
|
Bệnh ho gà (Bordetella pertussis) |
Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ:
3 mũi DTaP khi trẻ được 2,4,6 tháng, sau đó
tiêm nhắc lại 2 mũi tiêm nhắc lại khi trẻ
được 15-18 tháng và 4-6 tuổi. Trẻ trước
13 tuổi và thiếu niên: tiêm nhắc lại dùng Tdap.
Người lớn: tiêm nhắc lại Tdap 10 năm một
lần. Phụ nữ mang thai: Tdap trong ba tháng đầu. |
|
Bệnh lao (Mycobacteria lao) |
BCG chỉ tiêm cho những trường hợp
đặc biệt. |
|
Sốt thương hàn (Salmonella typhi) |
Chỉ tiêm khi du lịch đến vùng bệnh
đang lưu hành. |
|
Tổng điểm |
|
|
Lời nhắc:
Tổng điểm 0 thì thật ưu tú, không cần làm gì
thêm. Nếu có mục nào điểm 1 bạn nên tham khảo
với bác sĩ hay các chuyên gia nghành y để chủa trị
nếu cần. Lưu lại hay in bảng trên. Nhớ xoa bỏ
dữ liêu riêng khi rời trang web.
"Dự phòng tốt
hơn chữa trị" - Desiderius Erasmus
|
Preventive medicine plays a crucial role in enhancing public health by focusing on proactive measures to avoid illness. By promoting healthy lifestyles, vaccinations, and early screenings, it significantly reduces the burden on healthcare systems and improves overall quality of life. It empowers individuals to take charge of their well-being and fosters a healthier, more sustainable society.
|